tượng phật thích ca mâu ni

  31/12/2016

  Anh Bình

DANH HIỆU

Phật thích ca mâu ni có xuất thân từ dòng họ thích ca là người hay phát khởi lòng nhân từ mà tâm hồn luôn luôn tĩnh mịch . 

LƯỢC SỬ

Cách đây hơn 25 thế kỷ trước , ở đất nước ấn độ có một vị thánh xuất thế đó chính là đức phật thích ca mâu ni . Khi đó xã hội ấn độ chia làm bốn giai cấp , gồm có :

Bà la môn ( Brahmanes ) ; Sát đế lỵ ( Kastryas ) ; Phệ xá ( Vaisyas ) ; Thủ đà ( Soudas ) .

Đức phật thích ca sinh trong gia đình dòng dõi quý tộc thuộc giai cấp thứ hai . Thân sinh ngài là vua tịnh phạn ( Suddodhana ) và thân mẫu của ngài là hoàng hậu magia ( Maya ) ở thành Ca tỳ la ( Kapilavatsu ) . Ngài sinh vào đúng ngày rằm tháng tư âm lịch việt nam , trong một lần thân mẫu ngài đang đưa tay hái cành hoa thì ngài nhảy ra và bước liền bảy bước , mỗi bước là một đóa hoa sen . Ngài được đặt tên là Sĩ đạt ta ( Sidhartha )

Ngài chưa đầy tháng thì mẹ ngài đã băng hà , ngài được Dì mẫu nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành , ngài rất hiêng hòa với mọi sinh vật dù là con kiến . Ngài cũng đã lấy vợ và sinh con . Năm 29 tuổi, Ngài trốn vua cha , từ biệt vợ con vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo. Tương truyền trước khi xuất gia, Ngài đã dạo chơi bốn cửa thành mục kích cảnh sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài ôm lòng thương cảm vô hạn, quyết tìm con đường giải thoát cho mình và tất cả chúng sinh. Vì thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ ngai vàng, và mọi lạc thú ở đời, xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết lời khuyên nhủ ngăn can.

Sau khi xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi tìm thầy học đạo. Ngài đã từng tham học với hai vị Sư trứ danh đương thời là A-La-Lã Ca-Lan (Alara Kalama) và Uất-Đà-Già La-Ma (Uddaka Ramaputta). Nhưng xét đến kết quả đạo lý của họ đều không làm cho Ngài thỏa mãn.

Sau đó, Ngài từ giã họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn uống chút ít đủ duy trì mạng sống, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại kết quả gì. Cuối cùng nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải là con đường chân chính, Ngài liền bỏ từ nó, trở lại lối sống bình thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của vũ trụ. Một hôm, đêm thứ 49 ngồi Thiền ở dưới cội cây Bồ-đề, Ngài bừng ngộ thấy rõ chân lý của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh-tử luân-hồi. Ngài đã nói rằng : "Từ nay không còn ai có thể làm thầy của ta nữa vì ta đã giác ngộ rồi "

Sau khi đã chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng mình mà liền nhập thế phổ độ chúng sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết pháp suốt 45 năm, châu du đến một phần ba (1/3) xứ Ấn-Độ. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Nơi Ngài thường đến và thường lưu trú là thành Vương-Xá (Rakagrha), nước Ma-Kiệt-Đà (Magadha), thành Phệ-Xá-Ly (Vésali), thành Xá-Vệ (Shavasti), nước Câu-Tát-La (Kosala) …

Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta-La song thọ (Sa-la) ngoài thành Câu-Thi-Na (Kusinagara), sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài đã nhập Niết-bàn (Nibbana).

BIỂU TƯỢNG

Vào trong các chùa Phật-Giáo Bắc-Tông, ngay giữa chánh điện hoặc thờ một tượng Phật Thích-Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, Đức Thích-Ca ngự giữa, bên phải Đức Phật Thích-Ca là Đức Phật A-Di-Đà, bên trái là Đức Phật Di-Lặc Tôn Phật ( Phật tương lai ) . Lối thờ này tượng trưng Tam-Thế-Phật, Phật Thích-Ca là Phật hiện tại, Phật A-Di-Đà là Phật quá khứ, Phật Di-Lặc là Phật tương lai. Bất cứ lối thờ nào, Đức Thích-Ca đều ngự ở giữa, nên cũng gọi Ngài là Đức Trung-Tôn.

Tượng Phật Thích-Ca không giống người Ấn-Độ, mà tùy ở nước nào tạo tượng Ngài giống người nước ấy .Thông thường hình tướng ngài với khuôn mặt từ bi đầy dặn và một ánh mắt dịu hiền . Ngài ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam muội , đôi mắt khép lại ba phần tư ( 3/4 ).

THÂM Ý

Nhìn sơ qua hình tượng Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, chúng ta đã thấy những điểm cách xa thực tế. Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật giống người Ấn-Độ ngồi trên tòa cỏ dưới cội cây Bồ-Đề ?

Bởi vì Bắc Tông Phật giáo quan niệm Đức Phật không phải căn cứ vào con người xác thịt tầm thường, mà thấy Phật là pháp thân thường trụ . Hiện thân Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta tu hành thành Phật , chỉ là một giai đoạn, một hóa thân tùy cơ cảm của chúng sanh thị hiện đấy thôi . Đã là hóa thân tùy cơ cảm thì ở đâu có cảm Đức Phật đều ứng hiện như nguyện để độ họ . Vì thế , ở Việt-Nam , cảm mộ Phật , Phật sẽ thị hiện người Việt-Nam , ở Trung-Hoa cảm mộ Phật , Phật sẽ hiện người Trung-Hoa để hóa độ . Đó là tư tưởng siêu thực , không còn thấy Phật ở trong một hình thức cố định nào . Đức Phật đã đồng hóa theo từng dân tộc , từng chủng loại . Do tư tưởng nầy , Bắc Tông Phật giáo đối với Đức Phật không thấy xa lạ , mà rất gần gũi thân mật và phát sinh tín ngưỡng “ Phật tùy tâm hiện ” . Ta hãy nghe vị Quốc Sư núi Yên Tử nói với vua Trần Nhân Tông , khi ông nầy lên núi cầu đạo : “ Núi vốn không có Phật , chỉ có ở tâm . Lắng tâm mà thấy , đấy gọi là tâm Phật . Nay bệ hạ muốn giác-ngộ tâm ấy thì đứng ở trần gian mà thành Phật , không phải khốn khổ cầu Phật ở ngoài ” . (Khóa Hư Lục)

Đã tin Phật tùy tâm hiện , nếu tâm mình tưởng Phật tức là có Phật hiện đến . Do đó phát sinh tín ngưỡng “ Phật hiện cứu khổ mọi người ” . Cho nên , những khi lâm tai , mắc họa , người ta hay thành kính , lễ mễ cầu Phật hiện mách bảo cho phương cách thoát khỏi tai họa ...

Phật ngự trên đài sen cũng là một ý nghĩa tượng trưng siêu thực . Bởi vì hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát . Hoa sen phát xuất trong lòng vũng bùn nhơ nhớp , mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết . Đó là đặc tính không thể tìm được trong các loài hoa khác. Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp , mà không bị lây nhiễm mùi tanh hôi , trái lại còn đầy đủ hương vị thơm tho , đó mới thật là thanh tịnh . Vì cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế , mới chơn thật thanh tịnh . Nếu hoa sen mọc giữa bãi cát trắng phau , hay trên gò đất khô sạch sẽ , dầu có hương sắc gấp mấy lần hơn nữa vẫn không được quý trọng như vậy được . Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà lên , lại giữ được tánh cách thanh khiết , nên mới được mọi người tán dương ngưỡng mộ .

Đức Phật cũng thế , trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta , cũng có gia đình vợ con cha mẹ , cũng hưởng giàu sang sung sướng , nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm , không bị sợi dây gia đình trói buộc . Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch , ngồi trong tù ngục gia đình mà chí Ngài đã vượt ra ngoài vũ trụ mênh mông . Đức tánh trinh bạch và siêu việt ấy , chỉ có hoa sen mới đủ sức tượng trưng .

Bắc tông Phật giáo đặc trọng ý nghĩa “ thanh tịnh trong ô nhiễm ” nên chủ trương “phiền não tức Bồ-đề ” , “ sanh tử tức Niết-bàn ” . Không thể tìm Bồ-đề ngoài phiền não , không thể có Niết-bàn ngoài sanh tử . Cứ ngay trong phiền não chúng ta khéo chuyển sẽ thành Niết-bàn . Không chán sợ trốn tránh , không mơ ước mong cầu nơi nào khác . Vì thế , đi đến chủ trương “ tích cực nhập thế ” . Bởi vì không thể có Đức Phật ngoài chúng sanh , không thể có cõi Cực-Lạc thanh tịnh ngoài cõi Ta-bà uế trược.

Đôi mắt Đức Phật đăm chiêu nhìn xuống là biểu thị quán sát nội tâm . Giáo lý Phật dạy là giáo lý nội quan , luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự-giác tự-ngộ . Tâm mình là chủ nhân ông của mọi hành động , mọi nghiệp quả . Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhơn sinh . Vì thế , Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của mình . Muốn tránh quả khổ đau , cầu quả an lạc , con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm và hành động nơi tự thân mình . Một tâm niệm lành , một hành động tốt sẽ đem đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc. Ngược lại , một tâm niệm ác , một hành động xấu sẽ chuộc lấy kết quả khổ đau về nơi mình . Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta . Sự cầu cạnh , sự van xin nơi tha nhân hay thần linh , nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng kể . Cho nên, ta phải quán sát lại ta , để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi hành động của mình . Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm . Vua Trần Nhân Tôn hỏi về bổn phận , tôn chỉ Thiền , Tuệ Trung Thượng sĩ đáp : “ Phản quan tự kỷ bổn phận sự , bất tùng tha đắc ” . ( Soi lại nơi mình là bổn phận, không từ nơi người mà được ) . ( Tam Tổ Thực Lục)

Những phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đăm chiêu nhìn xuống . Như khi chúng ta kiểm soát lại tâm tư hay hành động của mình , dù đi , đứng , ngồi đôi mắt chúng ta nhất định phải nhìn xuống . Khi chúng ta muốn van xin điều gì với những người đáng kính bên ngoài dĩ nhiên đôi mắt phải trông lên vị ấy . Vì thế , khi nhìn lên đôi mắt Đức Phật, đôi mắt các vị thánh của tôn giáo khác , chúng ta có thể nhận biết tôn giáo nào chủ trương nội quan , tôn giáo nào chủ trương ngoại quan .

Trên đảnh Đức Phật Thích-Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục kế , để biểu thị cho trí tuệ tuyệt vời , và cũng là nơi phóng quang . Theo các Kinh Pháp-Hoa, Hoa-Nghiêm ... trên đảnh Đức Phật có tướng không thể thấy , tướng ấy bậc Bồ-tát từ Sơ-địa trở lên chỉ thấy được đôi phần , trừ Phật với Phật mới thấy trọn vẹn . Tướng ấy biểu thị cho pháp thân . Vì chúng sanh không thể thấy nên gọi là  “ Vô Kiến Đảnh Tướng ” .tôn tượng bổn sư thích ca do dothocungdailoan.com phân phối

Chung quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian . Theo trong Kinh nói chung quanh Đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm . Bởi vì con người luôn luôn có một lớp nghiệp bao quanh , nếu nghiệp ác thì hiện lên vừng hắc-ám , chúng sanh trông thấy kinh sợ , nếu nghiệp thiện thì hiện ra ánh sáng trong lành , chúng sanh trông thấy sanh tâm kính mến . Vì mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không thể trông thấy rõ ràng , song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể biết được phần nào . Như người hiền lành đến trước chúng ta, nhìn thoáng gương mặt là ta có cảm tình ngay . Nếu người dữ đến trước chúng ta , nhìn sơ qua ta tự nhiên nảy sanh ác cảm liền . Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào hình thức , mà nó lại là siêu hình thức ... Cho nên ngày xưa các vị tu hành đắc đạo , có ai đến tham học , một phen nhìn qua là các Ngài biết phước duyên kẻ ấy mỏng hay dày , rồi tùy căn cơ giáo hóa . Đức Phật là con người thuần thiện , tâm thanh tịnh , trí sáng suốt thì ánh sáng hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương nhiên !!! 

Hình ảnh Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tay cầm cành hoa sen đưa lên, được gọi là Phật Thích Ca “Niêm Hoa Vi Tiếu”- đây là hình ảnh của Đức Phật trong Pháp Hội Linh Sơn, mang một ý nghĩa về “có mà như không, không mà như có” (Sắc bất dị không, không bất dị sắc) của đạo thiền. Theo kinh điển Phật Giáo ghi chép,tương truyền ngày nọ đức Phật lên toà giảng Pháp – không luận giải dài dòng như mọi ngày, Ngài chỉ im lặng cầm một cành hoa đưa lên trước hội chúng. Hội chúng ngơ ngác không ai hiểu gì, chỉ tôn giả Ca Diếp lặng lẽ mỉm cười như ngầm thâm ngộ ý nghĩa lời dạy của Thầy. Đức thế Tôn liền nói: “Ta có Con mắt của Chánh Pháp, Diệu Tâm của Niết Bàn, Thực Tướng của Vô Tướng, Pháp này Siêu Việt Ngôn, từ nay ta truyền trao cho Ca Diếp”. Thế là, bằng lối “Niêm Hoa Vi Tiếu”, Đức Thế Tôn đã khai sinh ra dòng Thiền tông, một tông phái lấy tâm truyền tâm, coi trọng tự chứng, không qua ngôn ngữ văn tự mà chỉ dùng tuệ giác vốn có nơi tâm.

Phật-Giáo Bắc-Tông thường thờ tượng Phật Thích-Ca sơ sanh . Tượng này hình một hài nhi đứng trên hoa sen , tay phải chỉ lên trời , tay trái chỉ xuống đất . Đó là biểu thị một bậc thánh nhân xuất thế , vừa lọt lòng mẹ đã có những hành động siêu phàm . Ngài đi bảy bước là bảy đóa sen ( bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc ba ngàn thế giới đón như lai và thốt ra câu :

Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn, Nhứt thiết thế gian, Sanh lão bệnh tử.

Dịch Nghĩa :

Trên trời dưới trời, Chỉ Ta hơn hết, Tất cả thế gian, Sanh già bệnh chết.

Nghĩa là từ nhân gian đến các cõi trời , đối với vấn đề sinh , lão , bệnh, tử , chỉ có Ngài là người vượt ra và cứu thoát tất cả . Song Bắc-Tông Phật-Giáo thường thường dẫn hai câu đầu thôi , để nhấn mạnh vào chữ “ Ta ” ám chỉ pháp thân tuyệt đối , trên trời dưới đất không gì bì kịp .

Đây chỉ lược giải thích vài đặc điểm trong hình tượng đức Phật Thích-Ca. Mong rằng mỗi khi đến lễ dưới chân tượng Ngài , mỗi người đều ý thức được mình phải làm gì đối với hình ảnh biểu thị ấy . Sự hữu ích của việc lễ Phật gốc ở chỗ nhận được thâm ý , rồi thể theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Ngài !!!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật !

tác giả : tài liệu sưu tầm từ nhiều nguồn có gì không phải mong quý vị chỉ dạy để chngs con sửa chữa được kịp thời

Bình luận (2)

Trả lời

Geseeceft | 29/10/2022

cialis reviews Women in the TAILORx trial with a high recurrence score on the test 26 and above were assigned to receive chemotherapy and hormone therapy after surgery

Trả lời

blalley | 11/05/2022

https://newfasttadalafil.com/ - Cialis Cialis Scadenza Brevetto Cialis Overdose Amoxicillin Zdvgrl https://newfasttadalafil.com/ - cialis pills Gwdsrh Cialis Billig Rezept

Đóng góp ý kiến

 
0